Thứ Ba, 22 tháng 9, 2020

 

                ĐỊA CHÍ DỰ QUẦN CA

 

Làng Dừa ấy làng Dự Quần

Đêm ngày sông Bạng xoay vần xuống lên

Nước từ nguồn suối phía trên

Xuôi ra biển cả qua miền ngã ba

Hợp duyên thuỷ tụ làng ta

Dân cư đông đúc kể đà ngàn năm

Hẳn xưa cồn, mả(1), rú, đầm

Bãi sông sú vẹt, ao dầm lác năn

Sông Dừa(2) dào dạt reo ngân

Thuyền buôn xuôi ngược nhiều lần đậu neo

Thuỷ bộ ngang dọc thuận chiều

Dần dà hội hợp bao nhiêu cộng đồng

Kể từ khởi nghiệp bên sông

“Dựa Cồn” sinh sống, đồng lòng an cư

Cực Đông bến – bãi, kè – cừ

Hẳn là chỗ dựa nghề ngư của làng

Đồi cây đất nổi dọc ngang

Xây dần nên xóm, mở làng nối nhau

 Xóm Đông ở giữa Nam, Hàu

Đây có Nghè Cả, nhắc nhau nhớ về

Xóm Mười Hai nữa cận kề

                                  Phía Đông Bắc lại có đê bao ngoài

ở đây sông lớn chia hai

Nhánh lên Lâm Động, ngã dài Nghệ An

Đò Dừa đưa khách sang ngang

Qua dòng sông Bạng sang làng Khả La

Giữa làng toả bóng cây Đa

Rẽ ra đồng Đỗi xa xa hữu tình

Núi Đất vẫn xóm làng mình

Tên gò trấu - đất làm đình đổ ra

Xóm Hàu theo đó giãn xa

Muốn sang xóm Nữ phải qua Đê Ngoài

Xóm Chùa thờ tự Phật đài

Kề bên đường cái giáp lai xóm Hàng

Dân đông phình dọc, phình ngang

Phải thêm xóm Mới, đàng hoàng làng ta.

Từ Đình bao quát rộng ra

Núi sông, đồng ruộng quê nhà bốn phương

Phía trên xa có cồn Đường

Xưa Nghè Thánh ngự , tỏ tường Tây Đông

Bắc làng cồn đất giáp sông

Dân xây Nghè Nữ , cộng đồng vui thêm

Mốc, Mít , cồn Quanh phía trên

Nghĩa trang mồ mả cất lên đã nhiều

Mả Dài đồng vọng tiếng tiêu

Cồn Tràu, cồn Vó nắng chiều mênh mông

Cồn Lớn , bãi ở giữa sông

Ta đi dậm ghẹ, nước ròng nước lên

Đồi Bành , Đồi Dứa phía trên

Nắng mưa bồi lở, đất nền còn không ?

Trước Đình cồn án giữa đồng

Còn bao cồn đỗi, nhớ lòng bàn tay. . .

Địa hình đã kể trên đây

Còn nghề sinh sống từ ngày xa xưa

Sông Dừa, Đòn Xóc sớm trưa

Lưới chài , đăng, đáy, găng vừa trũ te

Khi Hón Giác , lúc Ba Chè

Hàn Nữ , Hàn Vực, đi ghè hàu sông

Căng buỗm lên đón gió Đông

Ra khơi vào lộng nặng lòng biển xa

Từ cửa Lạch Bạng sông nhà

Ngư trường ven biển, Mê xa, Biện gần

Biển Đông đánh bắt bao lần

“Vạn chài”, “ kẻ bể ” đều dân quê nhà

Được mùa biển lặng, reo ca

Chim, thu, sủ, lụ, mực và nhám vây

Nghề ngư sông nước vơi đầy

Nông nhàn xuống sác, đó đây no lòng

Cá tôm, cua ghẹ, ngao còng

Nuôi dân ta sống , buôn Đông bán Đoài

Đập Đình , Cồn Vó , Đê Ngoài

Huấn Luận , Xóm Nữ lúa hai vụ trồng

Lại còn Đập Mới , Đập Đung

Đập Ông Tiến nữa , nhớ không Đập Tràn

Lên cao đồng bãi dọc ngang

Lúa khoai tăng vụ dân làng ấm thân

Đỗi ruộng làng, ấp Ông Xuân

Trại Hương Vinh nữa, nhiều lần đổi thay

Đồng Bản bươn chải bao ngày

Sớm chiều tất tưởi cồn này bãi kia ...

Nông , thuỷ sản chẳng đủ chia

Đốt than chặt củi đầm đìa mồ hôi

Hái sim, chè góp triền đồi

Chản khe Bè tắt sang nơi Đá Tròng

Gò Gai, Khe Cái tìm ong

Đào mài, lượm gắm những mong gùi đầy

Trại Ông Mừng tiếp thung cây

Nhặt dẻ, xẻ gỗ, bứt mây mang về

Bao người kiệt sức thảm thê

Hay gì ăn xổi cái nghề xưa kia

Chỉ mong từ bỏ xa lìa

Giờ không còn nữa, rừng chia khoán rồi !

Một thời cũng chẳng xa xôi

Mở thêm nghề muối lần hồi nuôi nhau

Nại Đầu Đò có lớn đâu

Nại Giếng Mới, rộng hai đầu chẳng xa

Vượt sông Đòn Xóc, đò nhà

Nại Vạn Xuân nữa là ba nại làng

Gừng cay muối mặn gian nan

Một thời Diêm nghiệp, lan man nhớ về

Làm ăn dẫu có trăm nghề

Vẫn cần mua , bán , thói quê, chợ làng

Chợ Vầy, chợ Trệnh mơ màng

Nay đâu còn nữa , ngỡ ngàng chiêm bao

Ta lên chợ Trúc lao xao

Cạnh đường quốc lộ ra vào Bắc - Nam

Ngã tư dẫy dọc, dẫy ngang

Dẫu chưa vào chợ mà hàng nhiều ghê

Nơi đây phát triển lắm nghề

Thời kỳ đổi mới ở quê cũng giàu

Ngoài làng trong huyện chợ đâu ?

Chợ Còng chợ Bạng hai đầu vẫn đi

Chợ Thông, chợ Biện xa chi

Cần làm ăn lớn thì đi chợ Chiền

Nước mưa quí tựa ao tiên

Nhà có Bể Cạn trữ thêm ăn dần

Giếng làng phèn mặn cực thân

Nuớc Mưa đâu dễ cho dân thoả lòng

Xem ra khắp chốn Đoài, Đông

 Chẳng bằng giếng Thống ngọt trong lạ kỳ

Dù cho nắng hạn kiểu chi

Giếng Hang Tôm vẫn rầm rì chảy ra

Nước nguồn trong mát đậm đà

Vẫn còn đọng mãi trong ta tháng ngày. . .

Ao Đình lên xuống bậc xây

Ao Ngoài giặt chiếu, trâu vầy nước nông

Đình làng rợp bóng Đa Vông

Bao lần lễ hội vui không muốn về

Lúa xanh, xanh ngắt chiều quê

Cánh cò chao liệng , trâu về xóm Đông

Diều ai lơ lửng từng không

Vẳng nghe tiếng sáo trên đồng vọng xa

Cách sông đã có cầu qua

Lên rừng xuống biển giờ đà thuận hơn

Trải bao biến đổi, vuông - tròn

Người xưa cảnh cũ có còn nữa đâu

Rồi đây “bãi biển – nương dâu”

Làng đô thị hoá, nhiều cầu lại qua

Nhớ thôn xóm, ngẫm gần xa

Chỉ mong đổi mới, mọi nhà đi lên

Quê Cha - Đất Tổ - Mẹ Hiền

Một miền ký ức , nỗi niềm vấn vương

Tấc lòng người ở tha phương

Có xa vắng mới nhớ thương dãi dề

Dẫu đi khắp chốn sơn khê

Lòng ta vẫn nhớ , nhớ quê Dự Quần .

 

Bài thơ được đăng vào Tháng 10 năm 2006 -  do  Đỗ Văn Bình sáng tác nhân dịp làng Dừa (Dự quần, Xuân lâm, Tĩnh gia, Thanh hóa) làm cuốn sử làng với tên sách “Dự Quần xưa và nay”- Đăng kèm dưới đây bài hát về làng Dừa do nhạc sí Đỗ Xuân Dương sáng tác và trực tiếp thể hiện.



(1) Là mả cây

 

(2) Sông Bạng đoạn chảy qua làng Dừa gọi là Sông Dừa